Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Bệnh thương hàn ở bồ câu


Bệnh thương hàn ở bồ câu đã được phát hiện và nghiên cứu ở Hoa Kỳ và một số nước
Châu Âu. Đây là một bệnh chung của bồ câu, gà, ngan, ngỗng, vịt với hội chứng
viêm ruột, ỉa chảy.


1. Nguyên nhân
Bệnh gây ra do vi khuẩn Salmonella gallinacerum và S. emteritidis thuộc họ Enterbateriacae. Vi khuẩn là loại trực khuẩn nhỏ, ngắn có kích thước: 1-2x1,5 micromet, thường chụm 2 vi khuẩn với nhau, thuộc gram âm(-), không sinh nha bào và nang k(Copsule). Vi khuẩn có thể nuôi cấy phát triển tốt ở  môi trường thạch nước thịt và peptone, độ pH=7,2, nhiệt độ thích hợp là 370c. Vi khuẩn sẽ bị diệt ở nhiệt độ 600c trong vòng 10 phút, dưới ánh sáng mặt trời trong vòng 24h. Nhưng có thể tồn tại 20 ngà khi đặt trong bóng tối. Các hóa chất thông thường diệt được vi khuẩn như: axit phenol -1/1000; chloruamercur -1/20.000; thuốc tím 1/1000 trong 3-5 phút.
2. Bệnh lý lâm sàng
Trong tự nhiên có một số chủng Salmonella gallinacerum có độc cực mạnh, gây bệnh cho bồ câu nhà, bồ câu rừng, gà, vịt và nhiều loài chim trời khác. Bồ câu nhiễm vi khuẩn qua đường tiêu hóa. Khi ăn uống phải thức ăn hoặc nước uống có vi khuẩn, bồ câu sẽ bị nhiễm bệnh. Vi khuẩn vào niêm mạc ruột, hạch lâm ba ruột, phát triển ở đó và tiết ra độc tố. Độc tố vào nước, tác động đến hệ thần kinh trung ương, gây ra biến đổi bệnh lý như thân nhiệt tăng cao, run rẩy. Vi khuẩn phát triển trong hệ thống tiêu hóa gây ra các tổn thương niêm mạc ruột, cơ ruột, làm cho ruột bị viêm và xuất huyết. Trong trường hợp bệnh nặng, vi khuẩn xâm nhập vào máu gây ra hiện tượng nhiễm trùng máu.
Bồ câu có thời gian ủ bệnh từ 1-2 ngày, thể hiện: ít hoạt động, kém ăn, uống nước nhiều. Sau đó, thân nhiệt tăng, chim đứng ủ rũ một chỗ, thở gấp, đặc biệt là ỉa chảy, phân màu xanh hoặc xám vàng, giai đoạn cuối có lẫn máu. Chim sẽ chết sau 3-5 ngày.
3. Đặc điểm dịch tễ
Hầu hết các loài gia cầm như bồ câu, gà, vịt, ngan, ngỗng, chim cút… cũng như nhiều loại chim trời đều nhiễn S. gallinacerum và bị bệnh thương hàn. Các nhà khoa học đã làm các thực nghiệm tiêm truyền S. gallinacerum cho 382 loài chim thuộc 20 nhóm chim, kết quả có 367 loài bị phát bệnh, chiếm tỷ lệ 96%. Chim ở các lứa tuổi đều có thể bị nhiễm vi khuẩn. Nhưng chim non dưới 1 năm tuổi thường thấy phát bệnh nặng và chết với tỷ lệ cao (50-60%).
Bệnh lây chủ yếu qua đường tiêu hóa. Nhưng cũng lây qua trứng khi bộ câu mẹ bị nhiễm bệnh. Ở các khu vực nuôi gà cùng với bồ câu trong cùng chuồng trại và môi trường sinh thái, bồ câu thường bị lây nhiễm mầm bệnh từ gà bệnh.
Bệnh có thể lây nhiễm quanh năm, nhưng thường thấy vào các tháng có thời tiết ấm áp và ẩm ướt trong mùa xuân, đầu mùa hè và cuối mùa thu.
4. Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng: Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng như chim ốm có tính chất lây lan với biểu hiện như ỉa lỏng phân xám vàng hoặc xám xanh, có lẫn máu. Khi mổ khám chim ốn thấy: tụ huyết, xuất huyết và tổn thương các niêm mạc đường tiêu hóa.
Chẩn đoán vi sinh vật: thu thập bệnh phẩm, nuôi cấy để phân lập vi khuẩn S.gallinacerum.
5. Điều trị
Thuốc điều trị: Dùng phối hợp hai loại thuốc: Tetracyclin liều 50mg/kg thể trọng và Bisepton liều 50mg/kg thể trọng. Thuốc có thể pha thành dung dịch đổ cho chim uống trực tiếp, liên tục trong 3-4 ngày. Thuốc trợ sức: cho uống thêm vitamin B1, C, K.
Hộ lý: Để tránh tổn thương niêm mạc tiêu hóa, cần cho chim ăn thức ăn mềm dễ tiêu như thức ăn hỗn hợp dạng bột hoặc trong thời gian điều trị thực hiện cách ly chim ốm và chim khỏe; làm vệ sinh, tiêu độc chuồng trại.
6. Phòng bệnh
Khi có bệnh xảy ra cần cách ly chim ốm để điều trị; chim ốm chết phải chôn có đổ vôi bột hoặc nước vôi 10%, không được mổ chim ốm gần nguồn nước và khu vực nuôi chim. Toàn bộ số chim trong chuồng có chim ốm cho uống dung dịch chloramphenicol 2/1000 hoặc sulfamethazone 5/1000 trong 3 ngày liền. Khi chưa có dịch: Thực hiện vệ sinh chuồng trại và vệ sinh môi trường; nuôi dưỡng chim với khẩu phần ăn thích hợp và đảm bảo thức ăn, nước nuống sạch.


0 Bình luận:

Đăng nhận xét